エピソード

  • Nhạc ngoại lời Việt : Elvis Presley, « Người còn cô đơn tối nay »
    2024/11/23
    Trong số các bản tình ca của Elvis Presley, nhạc phẩm « Are you lonesome tonight » có lẽ là giai điệu buồn và đẹp nhất. Vào đầu những năm 1960, sau hai năm thi hành nghĩa vụ quân sự, nam danh ca Elvis đã ghi âm lại bài hát này theo gợi ý của nhà quản lý Colonel Parker, đơn giản là vì vợ ông (bà Marie Mott) rất thích nghe bản nhạc này (phiên bản của Al Jolson), từng ăn khách nhiều năm trước đó Mặc dù đã được hoàn tất vào mùa xuân năm 1960, nhưng bản ghi âm « Are You Lonesome Tonight » của Elvis Presley lại bị hãng đĩa RCA « cầm chân », trì hoãn thời điểm phát hành đến hơn 6 tháng. Chủ yếu cũng vì ban giám đốc điều hành thời bấy giờ nghĩ rằng bản ballad này không phù hợp với hình ảnh và phong cách của Elvis, họ muốn anh hát nhạc rock để thu hút giới trẻ thay vì hát nhạc tình theo kiểu crooner, hợp hơn với lứa tuổi trung niên.Bất ngờ thay, khi được phát hành vào tháng 11 năm 1960, bài hát này thành công ngay lập tức trên thị trường Mỹ, đứng đầu bảng xếp hạng nhạc pop của Billboard, về hạng ba trong hạng mục R&B. Một tháng sau khi chinh phục Hoa Kỳ giai điệu này lại giành luôn ngôi vị quán quân tại vương quốc Anh và hạng đầu thị trường châu Âu.Có thể nói là « Are You Lonesome Tonight » là một bản nhạc xưa. Được nhóm sáng tác Tin Pan Alley (gồm các nhạc sĩ Roy Turk và Lou Handman) viết vào năm 1926, bản nhạc này đã thành công vang dội lần đầu tiên vào năm 1927 với bản ghi âm của Charles Hart. Hai thập niên sau, bài hát « Are You Lonesome Tonight » ăn khách một lần nữa với Harry Freidman, ca sĩ chính của dàn nhạc Blue Barron và nhất là phiên bản của nam danh ca Al Jolson, với giọng đọc khá truyền cảm thay vì giọng hát ở trong đoạn giữa.Khi cover lại bài hát này, Elvis có lẽ đã muốn chiều ý nhà quản lý của anh là Colonel Parker. Lúc đầu, ông chỉ yêu cầu anh hát thử, nếu không thích thì không cần phải thu thanh, nào ngờ lối hát thần sầu của Elvis lại nâng bản nhạc này lên một tầm cao mới, có phần vượt trội so với các phiên bản trước. Đoạn khó nhất đối với Elvis là phần độc thoại khi anh mô tả mối tình như một vở kịch ba màn, yêu nhau trong màn đầu, bẽ bàng khổ đau trong màn hai, để rồi chia tay nhau trong màn cuối. Khi vở kịch buông màn, cũng là lúc tình yêu đã đi vào hồi kết, sân khấu cô đơn trống rỗng để lại trong màn đêm một dấu chấm hết. Tuy không phải là sở trường so với giọng hát, nhưng giọng nói của Elvis trong phần thoại lại đầy sức thuyết phục.Ông hoàng Elvis đã ghi âm bản nhạc này tại Studio B ở Nashville vào đầu tháng 04/1960. Tuy nổi tiếng là một ca sĩ nhạc rock, nhưng vào thời bất giờ anh đang chuyển sang ghi âm những bài hát xưa, điển hình là bài hát rất ăn khách của anh trước đó « It's Now Or Never » được phóng tác từ giai điệu « O Sole Mio », và sau đó đến bài « Surender » (Torna a Surriento/Trở về mái nhà xưa trong tiếng Việt) cũng như bài « No more », chuyển thể từ « La Paloma », khúc đàn Tây Ban Nha nổi tiếng trong làng nhạc cổ điển.Bản thân danh ca Elvis thích sự chuyển hướng này trong sự nghiệp của mình, xem đó là cơ hội để mở rộng tầm nhìn, thử hát nhiều thể loại âm nhạc khác nhau. Điều mà ban giám đốc điều hành hãng đĩa RCA lo ngại, rốt cuộc đã không xảy ra. Dù bị dời lại hơn nửa năm, nhưng đến khi được phát hành, « Are You Lonesome Tonight » lại giúp cho Elvis chinh phục được thêm nhiều thành phần người hâm mộ mới (thế hệ trên 35 tuổi), mà vẫn giữ lại hầu hết những người yêu mến chất giọng của Elvis (chủ yếu là giới trẻ) luôn trung thành với giọng ca này từ lúc anh mới vào nghề.Cũng như bài hát « Will you still love me tomorrow » (Mai có còn yêu em) của Carole King đã cho ra đời nhiều bản nhạc hồi âm như « Tomorrow & Always » (Yêu đến ngàn sau), phiên bản của Elvis « Are You Lonesome Tonight » sau khi thành công, đã có ít nhất 5 ca khúc đối đáp của những giọng ca nữ khác nhau được tung ra thị trường. Đó là trường hợp của Dodie Stevens, Linda Lee, Ricky Page, Thelma Carpenter và Jeanne Black.Các giọng ca nữ này đã hồi âm Elvis khi ...
    続きを読む 一部表示
    9 分
  • Monsieur Aznavour, bộ phim tiểu sử nhân 100 năm ngày sinh
    2024/11/22
    Trong những năm gần đây, sự quan tâm của công chúng đối với dòng phim tiểu sử (biopic) vẫn chưa suy giảm. Phía nghệ sĩ quốc tế có Freddie Mercury, Bob Marley hay Amy Winehouse, còn trong làng nhạc Pháp, sau hai thần tượng Édith Piaf và Dalida, nay đến phiên « Monsieur Aznavour » ra mắt khán giả cuối tháng 10 năm 2024. Bộ phim kể lại hành trình của ông Aznavour trong những năm tháng đầu đời, đồng thời cũng đánh dấu 100 năm ngày sinh của danh ca người Pháp gốc Armenia. Bộ phim « Monsieur Aznavour » trước hết là câu chuyện của một kẻ gan lì bướng bĩnh, không chịu nghe lời ai. Mọi người đều nói rằng, trước sau gì ông cũng gặp thất bại, vì vào thời bấy giờ để hát nhạc tình, ca sĩ phải có ngoại hình, khuôn mặt phải điển trai. Người duy nhất thấy được tài năng của Aznavour, có lẽ vẫn là Édith Piaf, bởi vì cả hai nghệ sĩ này đều có ý chí vươn lên, thoát khỏi cảnh cơ cực nghèo đói, từ cái thuở đi hát rong ở ngoài đường phố. Ngay từ lúc mới vào nghề, nghệ sĩ Aznavour đã bị giới phê bình chỉ trích nặng nề, họ chê ông xấu ở ngoại hình cũng như ở chất giọng, khuyên ông nên làm nghề kế toán hơn là ca sĩ. Thậm tệ hơn nữa, nhiều nhà phê bình đã tỏ ra kỳ thị, khi coi thường nguồn gốc của gia đình ông.Tại Pháp, anh Fabien Marsaud nổi tiếng là một nghệ sĩ slam với nghệ danh ''Grand Corps Malade''. Lần này, anh cùng thực hiện với Medhi Idir bộ phim kể lại cuộc đời và sự nghiệp của nam danh ca Aznavour, một dự án có từ gần một thập niên qua, ngay từ thời ông còn sống. Nghệ sĩ Grand Corps Malade cho biết quá trình hình thành bộ phim « Monsieur Aznavour » :« Aznavour trước hết là một huyền thoại nhạc Pháp và xa hơn nữa ông là một biểu tượng của văn hóa Pháp ở nước ngoài. Về mặt quan hệ đời tư, tôi càng cảm thấy gần gũi gắn bó với ông. Sở dĩ tôi dành cho ông nhiều tình cảm quý mến là vì tôi có may mắn quen ông ở ngoài đời và quan trọng hơn nữa là tôi đã có dịp làm việc với ông, được ông chỉ bảo dìu dắt, nhờ vậy mà tôi hiểu ông Aznavour hơn, cả nghệ sĩ lẫn con người.Sinh thời, nam danh ca Aznavour đã từng có ý định cho quay một bộ phim kể lại cuộc đời và sự nghiệp của mình. Lúc đầu, ông đã giao dự án này cho con rể của ông (chồng của Katia Aznavour), là nhà sản xuất Jean Rachid. Thế nhưng, dự án này lại bị gián đoạn vào năm 2018 khi ông Aznavour đột ngột qua đời. Một thời gian sau đó, nhà sản xuất mới khởi động lại quá trình làm phim tiểu sử và giao cho chúng tôi phần soạn kịch bản cũng như việc thực hiện dự án này ». Thay vì phản ánh giai đoạn huy hoàng nhất trong sự nghiệp của Aznavour, ông có lẽ là nghệ sĩ Pháp đã thực hiện trong đời 5 vòng lưu diễn thế giới, bộ phim lại chủ yếu tập trung vào giai đoạn đầu đời, khi Aznavour còn đang chờ thời, người nghệ sĩ muốn phát huy tài năng, nhưng vì chưa có cơ hội, nên phải chịu khó làm đủ mọi nghề để kiếm sống, bữa no bữa đói. Nghệ sĩ Grand Corps Malade giải thích :« Ông Aznavour muốn kịch bản phim nhấn mạnh đến thời ông mới vào nghề, chứ ông không quan tâm đến giai đoạn thành công, bước lên tột đỉnh danh vọng (ông thành danh khá muộn vào năm 37 tuổi). Thời thanh niên, ông đã phải trải qua những năm tháng cơ cực, làm cùng lúc nhiều công việc mới hy vọng đủ sống. Xuất thân từ một gia đình nghèo người nhập cư gốc Armenia, ông đi làm rất sớm để phụ giúp cha mẹ. Ông chọn nghề sân khấu cho dù không có nhiều lợi thế : không có quan hệ rộng rãi, quen biết nhiều người có thể giúp ông thăng tiến nhanh. Nhiều nhà phê bình chê ông xấu cả về ngoại hình lẫn chất giọng. (Thực ra, giọng của Aznavour khá hay, khàn đục trong những vết gãy, nhưng lại không hợp với thời bấy giờ, đang có trào lưu của những giọng ca quyến rũ mượt mà, âm thanh trau chuốt bóng bẩy). Nhưng có lẽ nhờ có ý chí phấn đấu và sức chịu đựng bền bỉ mà người nghệ sĩ đã vượt qua được những trở ngại cũng như cạm bẫy, để rồi cuối cùng áp đặt tài năng của mình ». Khi mới vào nghề, ông Aznavour từng bị ...
    続きを読む 一部表示
    9 分
  • Việt Nam: Xuất bản sách đầu tiên về Du lịch Đông Dương xưa
    2024/11/15
    Không chỉ bây giờ, mà ngay từ thời Pháp thuộc, Đông Dương đã thu hút nhiều du khách Pháp và phương Tây nói chung. Chính quyền thuộc địa Pháp ngay từ đầu thế kỷ 20 đã tích cực quảng bá cho du lịch Đông Dương với nhiều cuốn sách được xuất bản vào thời ấy. "Du lịch Đông Dương xưa" cũng chính là tựa đề của một cuốn sách vừa ra mắt độc giả Việt Nam đầu tháng 10 vừa qua, do nhà xuất bản Dân Trí phối hợp với Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 1 phát hành. Biên tập chính của nhóm biên tập cuốn sách này là ông Trần Hữu Phúc Tiến, tác giả của một số quyển sách về Sài Gòn xưa, cũng như về các di sản kiến trúc của Pháp ở Việt Nam. Trả lời RFI Việt ngữ tại Paris ngày 28/09/2024, nhân dịp ông đến thủ đô Pháp để giới thiệu cuốn sách “Du lịch Đông Dương xưa”, tác giả Phúc Tiến cho biết: “Tôi có thể nói là đến bây giờ, chữ Indochine, Indochina, Đông Dương đang trở lại, hay nói cách khác, đang có một hiện tượng là rất nhiều người, cả già lẫn trẻ, muốn tìm hiểu về thời kỳ trước 1945. Trong khoảng 5 năm trở lại đây, mỗi năm có đến 9, 10 quyển sách viết về Đông Dương, hoặc dịch, giới thiệu những hoạt động rất phong phú, không chỉ là về cuộc chiến, về kiến trúc, văn hóa, mà còn có những ký sự, những câu chuyện về những nhân vật người Pháp, cũng như người Việt.Khi tham gia biên soạn sách để tìm hiểu về lịch sử, tôi thấy mảng du lịch là một mảng rất là hay. Khi viết quyển sách này, tôi có nói là chúng ta cùng “đi phượt” về miền quá khứ. Chúng ta đi thăm những điểm du lịch quen thuộc như Đà Lạt, Sapa, Đồ Sơn hay các thành phố lớn, chúng ta có biết rằng những nơi ấy được hình thành như thế nào không? Qua cuốn sách này, chúng tôi đưa bạn đọc tìm lại cội nguồn của những địa điểm du lịch đó, những nơi đó được hình thành ra sao, và trong đó có cả công sức của người Pháp lẫn người Việt.Đây là một công trình tập thể, chúng tôi cộng tác với Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 1 tại Hà Nội. Tôi là người biên soạn chính, cùng với hai bạn Bùi Hệ và Hoàng Hằng tham gia tìm kiếm tư liệu và dịch thuật. Cũng xin nói rõ là do khuôn khổ đầu tiên nên lần xuất bản này chỉ có tiếng Việt và tiếng Anh. Chúng tôi đã bàn là sẽ có một bản tiếng Pháp để phục vụ bạn đọc Pháp. Theo lời ông Trần Hữu Phúc Tiến, ngay từ đầu người Pháp đã chú ý đến 3 địa điểm du lịch mà họ xem là hàng đầu ở Đông Dương:“Tư liệu đầu tiên mà tôi rất vui khi tìm được, đó là một ấn phẩm giới thiệu về du lịch Đông Dương năm 1911, có nghĩa là đầu thế kỷ 20, của Hội Du lịch Pháp Touring Club de France, trong đó họ nêu ngay ba địa điểm mà họ coi là số một để du lịch khi đến Đông Dương:Vịnh Hạ Long, Angkor và Huế. Như vậy là trong ba nước Đông Dương thì đã có hai địa điểm là ở Việt Nam, một là du lịch thiên nhiên. Cuối thế kỷ 20 Vịnh Hạ Long mới được UNESCO công nhận là di sản thế giới, nhưng ngay từ đầu, người Pháp đã quảng bá cho Vịnh Hạ Long tuyệt vời như thế nào.Cũng như Angkor, trên thế giới ai cũng biết công sức của những nhà khảo cổ Pháp là những người đầu tiên khám phá ra Angkor. Đó là cung điện trong rừng, đã bị bỏ qua và khi người ta khám phá, thì người ta đã quảng bá nó, trân trọng nó, giữ gìn nó.Thứ ba là Huế. Phải nói chúng ta rất tự hào là có một kinh thành và nhiều điểm du lịch khác.Cuốn sách "Du lịch Đông Dương xưa" còn nêu bật công lao của người Pháp khai phá những địa điểm du lịch mà cho tới nay vẫn thu hút nhiều du khách trong vào ngoài nước, theo lời ông Trần Hữu Phúc Tiến:"Trước nhất là về những địa điểm du lịch thiên nhiên. Phải nói là người Pháp có công mở đường để làm những địa điểm du lịch ở vùng sâu, vùng xa. Bây giờ chúng ta đi rất là dễ dàng, nhưng ngày xưa thì không có. Ngay cả hai nơi mà chúng ta tưởng đi rất dễ dàng là Đồ Sơn, Hải Phòng và Sầm Sơn, Thanh Hóa là hai bãi biển đẹp, thì cũng không phải là có đường đến dễ dàng như bây giờ. Hoặc là Cam Ranh. Cam Ranh là ...
    続きを読む 一部表示
    10 分
  • Món cà ri Ấn Độ do ai sáng chế ?
    2024/11/08
    Nếu bạn có dịp đi du lịch Ấn Độ và ghé qua một quán ăn ở New Delhi, thì bạn đừng bao giờ gọi món cà ri. Chủ yếu cũng vì trên thực đơn các nhà hàng Ấn Độ, không có bán món nào được gọi là ''cà ri''. Trong mắt người nước ngoài, cà ri là một trong những biểu tượng nổi tiếng nhất của ẩm thực Ấn Độ. Trên thực tế, món hầm có nước sốt "cà ri" là do người Anh sáng chế, gợi hứng từ các công thức nấu ăn của người Ấn. Loại bột cà ri đầu tiên được bày bán ở Luân Đôn vào cuối thế kỷ XVIII, ban đầu chỉ có hạt rau mùi và tiêu đen, sau đó kết hợp thêm với bột nghệ, lá cà ri, hạt thì là. Những người bán bột cà ri thường có những công thức chế biến riêng, thêm bớt những loại gia vị quen thuộc để tạo thêm hương vị khác biệt. Nhìn chung, thành phần bột cà ri chủ yếu bao gồm đại hồi, đinh hương, thảo quả, hạt mùi khô, bột nghệ, quế chi, hoa tiêu và nhiều khi có thêm ớt khô. Một số thành phần thường được rang cho thơm rồi nghiền thành bột mịn, một số khác như hạt mùi chỉ giã nhuyễn chứ không rang nóng, rồi tất cả được trộn chung với nhau.Tại châu Âu, sốt cà ri thường được chế biến với bột gia vị làm sẵn, trong khi tại Ấn Độ, các bà nội trợ có thể sử dụng tới 30 loại gia vị khác nhau để làm ra nước sốt, nhưng họ không gọi đó là món cà ri. Tại Pháp, đầu bếp gốc Ấn Beena Paradin là tác giả của hai quyển sách ''Inde Gourmande'' và nhất là ''Spice Up'' nói về các loại gia vị do nhà xuất bản Flammarion phát hành. Trả lời phỏng vấn RFI Pháp ngữ, cô Beena Paradin cho biết công thức bột cà ri (để nấu các món hầm) ban đầu là một sản phẩm ''sáng chế'' để phục vụ người Anh, chứ không được phổ biến rộng rãi ở Ấn Độ :Khi nhắc đến cà ri, điều nghịch lý hiển nhiên nhất vẫn là loại gia vị hỗn hợp này đã trở thành biểu tượng của ẩm thực Ấn Độ trên toàn thế giới, thế nhưng cà ri ban đầu lại được sáng chế để đáp ứng nhu cầu của kiều dân Anh. Các gia đình người Anh khi trở về thăm ''mẫu quốc'' đều muốn mang theo một chút quà từ Ấn Độ, vào thời bấy giờ còn là thuộc địa của Anh.Dựa vào truyền thống nấu ăn của người Ấn, nhất là cách kết hợp nhiều gia vị để tạo thêm mùi hương tinh tế cho các món ăn, người Anh đã chế biến ra loại bột cà ri. Trên lãnh thổ Ấn Độ, các loại gia vị trộn sẵn với nhau thường được gọi là ''garam masala'', trong khi chữ ''cà ri'' (kari) trong tiếng Tamil chỉ có nghĩa là món hầm với gia vị. Nếu bạn nói rằng hôm nay bạn nấu món ''cà ri'', thì người Ấn không hiểu rõ là bạn sẽ nấu món gì.Ngược lại, người Ấn sẽ hiều ngay khi bạn nói rằng hôm nay tôi nấu món cà tím korma, tức là cà tím hầm với sốt cà ri trộn với rau dền, lá mù tạt, hạt điều và bột hạnh nhân. Món vindaloo là sốt cà ri có tỏi và gừng. Món tikka masala hay tandoori, còn được gọi là món ''cà ri khô'', do thịt cá được tẩm gia vị rồi đem nướng lò, chứ không có nhiều nước sốt. Nói tóm lại, người Ấn sẽ phân biệt từng món ăn trong cách gọi, trong khi cà ri là cách đặt tên Âu hóa để gọi chung các món ăn hầm với nhiều gia vị. Nhưng có một điều chắc chắn: bột cà ri là một ''phát minh'' của người Anh.Chữ cà ri (kari) lần đầu tiên xuất hiện trong các quan hệ buôn bán giữa Công ty Đông Ấn của Anh với các thương nhân Ấn Độ (gốc Tamil) ở vùng đông nam, đặc biệt là tại thành phố Madras. Họ đã sáng chế ra một loại gia vị hỗn hợp gọi là bột cà ri (kari podi) được sử dụng trong các món hầm. Kể từ đầu thế kỷ XX, các món nấu với bột cà ri, một khi đã du nhập sang nhiều nước khác, đương nhiên trở thành một phần của nền ẩm thực thế giới. Đầu bếp Beena Paradin giải thích :Bột cà ri đã được phổ biến từ thế kỷ XIX, và đến đầu thế kỷ XX, loại bột gia vị này đã lan rộng ra châu Âu rồi sang khắp thế giới. Bằng chứng là tại hầu hết các cửa hàng bách hóa ở Anh, người tiêu dùng có thể mua các loại bột cà ri theo kiểu Bombay hay theo kiểu Madras để nấu các món thịt hầm ở nhà. ...
    続きを読む 一部表示
    9 分
  • Lê Phổ - Mai Thứ - Vũ Cao Đàm, những nhà tiên phong về nghệ thuật Việt Nam hiện đại tại Pháp
    2024/11/06
    Khoảng 150 tác phẩm của ba danh họa Việt : Lê Phổ, Mai Thứ, Vũ Cao Đàm được trưng bày tại một triển lãm của bảo tàng nghệ thuật châu Á Cernuschi tại Paris, từ ngày 11/10/2024-09/03/2025. Đây là dịp để du khách có thể tìm hiểu sự tiến triển trong phong cách nghệ thuật Đông Tây kết hợp của tam kiệt trời Âu. Triển lãm với tên gọi “Những nhà tiên phong về nghệ thuật Việt Nam hiện đại tại Pháp”, diễn ra trùng với dịp kỷ niệm 100 năm ngày thành lập trường Mỹ Thuật Đông Dương (1925), cái nôi của nhiều nghệ sĩ Việt thành danh.Bảo tàng nghệ thuật châu Á Cernuschi giới thiệu các bức hoạ của Lê Phổ, Mai Thứ, Vũ Cao Đàm, đến từ 25 bộ sưu tập khác nhau, cùng sự trợ giúp từ gia đình của các nghệ sĩ. Triển lãm phác họa lại con đường nghệ thuật của ba họa sĩ, yêu quê hương nhưng cũng gắn bó với Pháp, và những thay đổi trong phong cách sáng tác giữa dòng lịch sử nhiều biến động.Trước tiên là giai đoạn từ trường Cao đẳng Nghệ thuật Đông Dương đến năm 1930. Vai trò của vị hiệu trưởng đầu tiên Victor Tardieu được nhấn mạnh, đặc biệt là mối quan hệ với các học trò Việt. Tiếp theo là giai đoạn 1931-1937, “Các họa sĩ bị nghệ thuật Paris quyến rũ”, và những xáo động của chiến tranh”. Cuối cùng là “Thời kỳ ở Pháp: Cuộc cách mạng của ba nghệ sĩ” với những sáng tác được lấy cảm hứng từ những vần thơ Kiều, của Nguyễn Du. Sinh ra trong một gia đình ở miền bắc Việt Nam, có cha là thống đốc vùng, Lê Phổ được tiếp nhận các giáo lý của Khổng Tử từ khi còn nhỏ, thạo chữ Hán Nôm. Lê Phổ học cấp 3 tại trường Bưởi (Trường trung học Bảo hộ thời Pháp thuộc) và cũng chính tại đây ông gặp Mai Thứ. Vào năm 1925, cả hai cùng thi đậu vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, theo học khoá đầu tiên ngay sau khi thành lập, dưới sự dẫn dắt của Victor Tardieu, và cả hai đã kết bạn với Vũ Cao Đàm, gia nhập trường một năm sau đó.Đọc thêm : Danh họa Mai Thứ và duyên nợ với MâconKể từ sau năm 1937, cả ba đều đến Paris và định cư tại Pháp. Trong thời gian đầu ở Paris, ba danh họa có quan hệ khá mật thiết, không chỉ là hàng xóm, tương trợ nhau những lúc khó khăn, mà còn chia sẻ thị trường. Phong cách nghệ thuật của Lê – Mai – Vũ có những điểm tương đồng. Họ đều có "chiến lược" sáng tác tranh lụa, có tầm nhìn về một Việt Nam "thơ mộng", phi thời gian, tại những không gian mà những cô gái trẻ uống trà, hay đi dạo trong các khu vườn yên bình, bất chấp bối cảnh chính trị nhiều xáo trộn.Sự dung hòa giữa nghệ thuật Đông – Tây trong các họa sĩ tạo ra nét đặc trưng riêng, là những cánh chim đầu đàn của nghệ thuật hiện đại Việt Nam tại Pháp. Các tác phẩm của ba danh họa được nhiều người mến mộ, nhiều lần phá kỷ lục về giá trong thị trường nghệ Đông Dương gần đây.RFI Tiếng Việt đã phỏng vấn giám tuyển Anne Fort, phụ trách về triển lãm để hiểu thêm về ba danh họa Việt, Lê Phổ, Mai Thứ, Vũ Cao Đàm.Tại sao lại lựa chọn ba cái tên Lê Phổ, Mai Thứ, Vũ Cao Đàm, thông điệp mà triển lãm muốn truyền tải qua các tác phẩm của 3 danh họa là gì ? Anne Fort : Sau cuộc hợp tác thành công với gia đình của Mai Thứ, trong một triển lãm được tổ chức ở thành phố Macon, miền nam nước Pháp vào năm 2022, chúng tôi tiếp tục làm việc cùng họ và gia đình của hai họa sĩ khác, để mở ra cuộc triển lãm về các tác phẩm của ba người bạn, đã có quan hệ mật thiết từ khi theo học tại trường Cao đẳng Nghệ Thuật Đông Dương ở Hà Nội. Còn một điều thú vị nữa là vô tình mà triển lãm cũng diễn ra trùng với thời điểm kỷ niệm 100 năm thành lập trường, với khóa đầu tiên được mở ra mà Lê Phổ, Mai Thứ, Vũ Cao Đàm, có mặt và cùng học cho đến khi tốt nghiệp vào năm 1931.Triển lãm có tên là “những người tiên phong về nghệ thuật Việt Nam ở Pháp” không phải là triển lãm về mỹ thuật Hà Nội, cũng không phải là triển lãm về các họa sĩ tiên phong của riêng Việt Nam. Chúng tôi chọn ba họa sĩ này, vì họ có điểm ...
    続きを読む 一部表示
    10 分
  • Paris: Trồng hoa trong thành phố để chế biến món ăn
    2024/11/01
    Tại châu Âu, chuyện dùng hoa tươi để chế biến món ăn mặn cũng như ngọt đã trở nên thịnh hành từ hai thập niên nay. Từ các món bình dị, dân dã cho đến các bữa ăn cao sang đắt tiền, chuyện dùng hoa tươi không chỉ tạo điểm nhấn cho món ăn thêm đẹp mắt mà còn kết hợp thêm nhiều hương vị ngon và lạ. Tại Pháp, trào lưu này giúp phát triển các nông trại ở thành thị, trồng hoa tươi để đáp ứng nhu cầu các tiệm bánh và nhà hàng. Trong phạm vi thủ đô Paris, đã có khá nhiều ''nông trại'' trồng rau quả hay nuôi gia súc để tạo thêm không gian xanh cho người dân thành thị. Chẳng hạn như trại trồng rau ở trong công viên Suzanne Lenglen ở quận 15 hay trại chăn nuôi ở công viên Kellerman ở quận 13. Còn theo ban tiếng Pháp RFI, có một nông trại vừa được thành lập ở quận 20, nằm cách 400m trạm xe điện ngầm Gambetta, ở phía đông Paris. Do hai ông Gérard Munier và Benoît Liotard đồng sáng lập, nông trại này được đặt tên là « Le Paysan Urbain » (Nông dân thành thị), nằm ở trên một hồ chứa nước. Lượng nước trữ ở trong bể nhân tạo dùng để chữa cháy hay để tưới cây công viên thành phố, chứ không phải là nước sạch dùng trong sinh hoạt thường ngày.Xuất thân từ gia đình nhà nông, hai ông Gérard Munier và Benoît Liotard đã từng đoạt giải nhất cuộc thi của Tòa đô chính Paris, nhờ sáng kiến chuyển đổi một khu đất bỏ hoang ở quận 20 thành một khu vườn trồng rau sạch có ao hồ để nuôi cá, có đồng cỏ để nuôi thỏ và chuồng gỗ nuôi gà. Độc đáo hơn nữa là nông trại này còn gieo trồng khá nhiều loại hoa tươi, chủ yếu để phục vụ cho các tiệm bánh ngọt cũng như các nhà hàng nào có nhu cầu. Hoa tươi là một mặt hàng dễ bị hư mà cũng không dễ vận chuyển, cho nên việc lập nông trại trồng hoa giữa lòng thành phố là một giải pháp cho ngành nhà hàng thời nay, chuyên dùng các đặc sản địa phương hay nông phẩm sản xuất tại chỗ, thay vì phải nhập hàng từ xa.Tại khu vườn « Le Paysan Urbain » (Nông dân thành thị), không phải chỉ có loài ong mới thích nhụy hoa, khách tham quan giờ đây cũng được hái hoa rồi nếm thử một số loài hoa tươi, theo lời hướng dẫn của chuyên viên phụ trách việc trồng hoa, anh Loïc Le Noan:Nụ hoa này vừa chớm nở nhưng khi cho vào miệng nếm thử ta nhận thấy ngay mùi vị của tỏi chiên giòn. Loài hoa mà tôi vừa ăn là loài hoa tul-ba-gia, có nguồn gốc từ Nam Phi, và nay băt đầu trở nên phổ biến tại Pháp. Hoa có nụ nhỏ với nhiều cánh tím, còn khi ăn thử hương vị lại giống như tỏi, cho nên hoa tulbaghia thường được gọi nôm na là huệ tỏi. Đây là một trong những loài hoa được chúng tôi trồng nhiều nhất ở đây.Một loại hoa khác cũng có mùi vị tương tự chính là « l'ail des ours » có nghĩa là tỏi gấu hay còn được gọi là tỏi rừng. Tại châu Âu, loài gấu sống trên núi vào mùa xuân thường hay ăn loại rau này có nhiều nụ hoa màu trắng, để dễ tiêu hóa. Ban đầu là một loài hoa dại có thể hái ở trong rừng, tỏi gấu giờ đây được trồng trong vườn hay ở những nơi có nhiều bóng râm, trước nhu cầu chế biến nhiều món ăn : đặc biệt là loại tỏi gấu ngâm dầu ô liu dùng để làm sốt trộn mì sợi, chẳng những thơm ngon mà còn bổ dưỡng.Nhưng không phải chỉ có hoa tỏi, mà còn có nhiều loài hoa khác cũng được trồng luân phiên trên mảnh vườn rộng hơn 6.500 mét vuông, rồi được giao đến các nhà hàng ở thủ đô Pháp. Trên các luống hoa, có rất nhiều loại hoa bướm păng xê hai màu (pensée), các chùm hoa lưu ly (bourrache) trông như những ngôi sao năm cánh màu chàm, hoa capucine màu vàng cam đôi khi còn được gọi là ''sen cạn'' có một chút vị cay nồng, càng giữ lâu càng có thêm vị đắng như cải diếp xoăn (endive), hoa agastache màu tim tím, cùng một giống như rau húng, nhưng lại có vị thơm của cam thảo. Tuy nhiên, theo lưu ý của anh Loïc Le Noan, không phải loài hoa nào mọc tự nhiên ở trong vườn cũng có thể ăn được:Đây là hoa anh thảo (primevère /primula) còn có tên gọi thông dụng là hoa báo xuân hoa anh thảo. Một số loại hoa anh thảo có thể ăn được (như loại màu vàng...
    続きを読む 一部表示
    9 分
  • Dany Brillant, tình thương gia đình cất giữ trong tim
    2024/10/26
    "Seventies'' (Thập niên 1970) là tựa đề album mới của Dany Brillant, được phát hành vào mùa thu năm 2024. Đây là album phòng thu thứ 12 của ca sĩ người Pháp, bao gồm nhiều sáng tác mới, cộng thêm vài bản cover như ''Delilah'' của Tom Jones. Dany Brillant còn nổi tiếng nhờ hát lại nhạc của Aznavour hay Dalida : từ giai điệu "La Bohème" (Kiếp phóng lãng) cho đến "Bambino" (Mối tình đầu) hay "Histoire d’un amour" (Chuyện tình yêu), nhiều bài cover của anh đều từng có phiên bản tiếng Việt.Album mới của Dany Brillant lần này giống như một hành trình âm nhạc tìm lại thập niên 1970, với nhiều nhịp điệu sôi động vui tươi, nhưng đằng sau không khí lễ hội, vẫn thấp thoáng những nỗi buồn le lói. Kể từ khi thành danh vào đầu những năm 1990, Dany Brillant đã chọn cho mình thể loại nhạc khiêu vũ, anh trở thành một trong những nghệ sĩ hiếm hoi chuyên biểu diễn các loại nhạc xưa, thịnh hành từ nhiều thập niên trước. Từ những ảnh hưởng của nhạc swing, nhịp điệu bebop, cho đến những bài hát lãng mạn trữ tình, nhất là những giai điệu La Tinh, Dany Brillant đã tạo ra cho mình một phong cách, một chỗ đứng riêng trong làng nhạc Pháp.Sinh năm 1965 tại Tunisie, Dany Brillant lớn lên trong một gia đình khiêm tốn trước khi theo bố mẹ đến Paris lập nghiệp. Từ thời niên thiếu, anh đã mê nghe nhạc jazz, điệu swing và các giọng ca crooner người Mỹ thời hoàng kim của các sòng bài Las Vegas như Frank Sinatra hay Dean Martin, những nghệ sĩ trong nhóm Ratpack luôn là thần tượng của anh.Sự nghiệp của Dany Brillant thực sự bắt đầu vào năm 1991. Album đầu tiên của anh (C'est ça qui est bon) giúp phổ biến các điệu nhảy xưa như cha cha, bebop hay madison. Trong những album kế tiếp, Dany Brillant đã mở rộng thế giới âm nhạc của mình bằng cách thử hát nhiều loại nhạc khác nhau, nhưng vẫn duy trì nhịp điệu, trung thành với hình ảnh lịch lãm của một ca sĩ crooner tân thời. Cách đây hai năm, Dany Brillant đã trình làng hai album để tưởng niệm đồng thời vinh danh ngòi bút sáng tác của Charles Aznavour.Với album "Seventies", Dany Brillant tìm lại thời thơ ấu của mình. Album này ra đời trong lúc gia dình anh đang có nhiều chuyện buồn. Em trai của Dany (tên là Steve) qua đời vì bệnh ung thư. Chính trong giai đoạn này, album "Seventies "đã thành hình, Dany Brillant nhớ lại những kỷ niệm tuổi thơ, những giai đoạn hạnh phúc trong đời. Vào những năm 1970, hai anh em Dany & Steve chỉ mới khoảng 10 tuổi. Gia đình anh không mấy dư dã nhưng bù lại họ luôn đùm bọc lẫn nhau.Về mặt âm nhạc, Dany Brillant lấy cảm hứng từ những âm thanh dịu dàng tươi mát của nhạc pop, disco và soul, dùng những nhịp điệu nhẹ nhàng ấm áp để nói những chuyện nghiêm túc nặng nề hon, ''hóa giải'' những nỗi buồn khi thấy gia đình mình bị thiệt thòi mất mát. Về mặt nội dung, đây có lẽ là album có khá nhiều bài hát nói về đời tư của nam ca sĩ. Dany Brillant viết nhiều ca khúc cho gia đình anh. Nhạc phẩm "À mon frère" là bài ca tặng người em trai quá cố. ''Mon amour, tu vis toujours en moi'' (Tình yêu sống mãi trong ta) anh viết cho vợ. Còn nhạc phẩm "Merci Maman" là lời cảm ơn mà Dany gửi tặng thân mẫu.Album ''Seventies'' cũng đánh dấu 30 năm sự nghiệp ca hát của Dany Brillant. Có thể nói là trong làng nhạc Pháp, anh vẫn có một chỗ đứng khá riêng biệt, chuyên hát sáng tác mới nhưng lại soạn theo các nhịp điệu xưa như paso, tango hay rumba. Dù mở rộng sang nhiều thể loại khác, nhưng sở trường của Dany Brillant vẫn là các điệu nhạc khiêu vũ (ballroom) cũng như dòng nhạc pop La Tinh.Có một điều rất lạ là từ khi vào nghề cách đây ba thập niên, Dany Brillant thường bị chê là hát nhạc xưa, nhưng rốt cuộc anh lại không lỗi thời. Thành danh ở độ tuổi 20, Dany bắt đầu hát những loại nhạc thịnh hành vào thời của bố mẹ anh. Nhưng với thời gian, anh lại trở thành người đi đầu trước khi có những trào lưu làm sống lại các dòng nhạc hoài cổ, có từ thời xa xua (những năm 1940-1950).Về điểm này, nam ca sĩ luôn tìm cách làm mới nhịp điệu bài hát, đặc biệt nhất là khi anh tái tạo các bản nhạc kinh điển như ''Bambino'' hay...
    続きを読む 一部表示
    9 分
  • Emilia Pérez, khát vọng đổi đời của một người chuyển giới
    2024/10/25
    Sau khi chinh phục hơn một triệu lượt khán giả tại Pháp, ''Emilia Pérez'' đã được Trung tâm Điện ảnh Quốc gia CNC chọn làm phim đại diện cho nước Pháp đi tranh giải Oscar 2025, trong hạng mục phim nước ngoài hay nhất. Đây là tác phẩm thứ 11 của Jacques Audiard, người từng đoạt giải Cành cọ vàng năm 2015 với phim ''Dheepan''. Lần này, đạo diễn Pháp trở lại với bộ phim ''Emilia Pérez'', kể lại giấc mơ đổi đời táo bạo của một kẻ từng có bàn tay nhuốm máu. Bộ phim bắt đầu với vụ bắt cóc nữ luật sư Rita Moro (do Zoe Saldana thủ vai), ngay sau một phiên tòa. Kẻ ra lệnh bắt cóc cô không ai khác ngoài ông trùm băng đảng Manitas Del Monte (diễn viên Karla Sofía Gascón), người điều hành mạng lưới buôn ma túy tổng hợp lớn nhất Mexico. Tưởng chừng mình sẽ bị thủ tiêu, cô Rita rốt cuộc lại nhận được một đề nghị hết sức bất ngờ. Đó là cô giúp ông trùm mafia thực hiện giấc mơ chuyển đổi giới tính của mình, từ đàn ông thành một người đàn bà. Trùm ma túy Mexico thừa hiểu rằng ông phải từ bỏ mọi thứ, kể cả vợ con, để làm lại từ đầu. Ông trả cho Rita thật nhiều tiền để lo mọi chuyện : đi tìm từ Thái Lan sang Israel một chuyên gia giải phẫu hàng đầu, lén đưa gia đình ra nước ngoài, chuyển khối tài sản kếch xù của gia đình vào ngân hàng Thụy Sĩ và tất nhiên là làm hộ chiếu mới một khi đã thay đổi danh tính. Như ông nói, đó là hy vọng duy nhất để cho ông trùm ma túy bắt đầu ''sống thật với chính mình''.Để cho câu chuyện giống như thật, nữ luật sư Rita Moro tung ra nhiều tin giả về việc ông trùm ma túy bị các băng đảng mafia thù địch, gài bẫy rồi sát hại. Một khi báo chí cũng như truyền thông đại chúng đã chấp nhận sự kiện trùm băng đảng Manitas del Monte đã đột ngột qua đời, thì lúc ấy nhân vật này có thể bắt đầu một cuộc sống hoàn toàn mới với tên gọi ''Emila Pérez''. Bốn năm sau, Rita quay lại với công việc thường ngày của mình ở Luân Đôn. Trong một bữa ăn tối, cô tình cờ làm quen với một phụ nữ mà cô chưa hề biết mặt. Đến khi nắm tay nhau, Rita mới chợt hiểu ngay rằng người ngồi bên cạnh mình không ai khác ngoài ông trùm Manitas nay đã chuyển giới. Trong vai một nữ doanh nhân giàu có, Emilia Pérez yêu cầu Rita giúp mình một lần nữa, khi đưa hai đứa con từ Thụy Sĩ về sống với mình. Emilia tự xưng là chị họ của ông trùm Manitas. Kể từ khi bắt đầu cuộc sống mới, Emilia Pérez dùng tiền (của việc buôn ma túy) để làm chuyện từ thiện. Cùng với Rita, Emilia lập tổ chức phi chính phủ giúp đỡ các gia đình từng là nạn nhân của các băng đảng mafia. Thế nhưng, điều đó dường như vẫn chưa đủ. Rốt cuộc, người muốn làm lại từ đầu, sống một cuộc đời khác, lại không đành từ bỏ mọi thứ. Nhưng cũng từ quyết định tìm lại hai đứa con mình, mà Emilia lại tạo ra nghịch cảnh, tự chuốc họa vào thân. Đơn giản bởi vì người vợ cũ của Manitas (do Selena Gomez thủ vai) nay lại có người yêu mới và chưa chắc gì đã chấp nhận tình huống ''lạ đời''. Cô bị vướng vào một mớ rắc rối mà bản thân cô không thể nào hiểu nổi.Quay phim xuyên nhiều thể loại để nói về đề tài chuyển giới Kịch bản phim ''Emilia Pérez'' khá phức tạp như tâm lý của những người chuyển giới. Trả lời phỏng vấn RFI Pháp ngữ, đạo diễn Jacques Audiard cho biết cảm hứng làm phim đã đến với ông một cách thật tình cờ ngẫu nhiên, ban đầu chỉ là một mẫu chuyện nhỏ ghi chép trong một quyển sách, sau đó lại được phóng tác thành một kịch bản phim trinh thám pha với một chút tâm lý xã hội, với nhiều tình tiết ly kỳ hấp dẫn :« Ý tưởng viết câu chuyện này đến với tôi nhân đợt phong tỏa đầu tiên tại Pháp trong thời đang có dịch Covid, vào đầu năm 2020. Lúc đầu, tôi soạn cốt truyện dưới dạng một bản phác thảo của một tác phẩm opera. Tôi thực sự không nhớ rõ là từ lúc nào dự án này lại trở thành một kịch bản phim. Tôi nghĩ là người có thể trả lời tường tận hơn câu hỏi này là nhạc sĩ Clément Ducol. Chúng tôi đã nhiều lần trao đổi ...
    続きを読む 一部表示
    9 分